LÀNG NGHỀ ĐAN MÊ BỒ XÃ MỸ TRÀ
- THÔNG TIN CHUNG
- Làng nghề đan mê bồ Mỹ Trà hình thành cách đây khoảng trên 100 năm, trước kia thuộc xã Mỹ Trà, nằm ở vùng nông thôn cách trung tâm khoảng 2 km, nhưng do chia tách về mặt địa lý hành chánh nên nay là một phần diện tích chia tách của phường Mỹ Phú năm 2005 và xã Mỹ Trà thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp chủ yếu tập trung ở Rạch Chanh, Rạch Bà Mụ, Mương Khai…
- Xã Mỹ Trà, có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, giao thông thủy lợi bên cạnh đó đất đai được phù sa bồi đắp hàng năm, địa hình bằng phẳng thuận lợi đi lại cũng như là giao lưu buôn bán các khu vực lân cận. Từ xa xưa con người đã biết vận dụng những hệ sinh thái này để tận dụng những vật dụng sẵn có cho lao động và sản xuất.
- Cùng với sự phát triển của nghề trồng lúa, có một Làng nghề mới dần được ra đời đó là nghề đan mê bồ. Theo những lão nông ở xã Mỹ Trà, nghề đan mê bồ không biết chính xác có tự bao giờ. Cứ đời ông truyền cho cha, cho con rồi đến cháu thế là kéo dài cũng cả trăm năm nay. Hồi trước nhà nhà đều làm ăn khấm khá từ nghề này. Chính vì vậy năm 2003 UBND tỉnh Đồng Tháp ra quyết định công nhận làng nghề truyền thống. Tính đến nay, toàn xã có hơn 68 hộ đang làm nghề mê bồ.
- Ban đầu, do không có bao chứa, kho chứa nên lúa thường dễ bị chuột ăn, ẩm mốc gây thất thoát, giảm chất lượng. Chính vì lẽ đó mà người dân đã suy nghĩ ra những vật dụng cần thiết trong nông nghiệp thay cho bao, kho chứa.
- Bồ là một vật dụng dùng để ví - chứa lúa, có thể chứa từ vài trăm đến ngàn giạ. Người ta sử dụng bằng cách dựng đứng mê bồ hoặc nối nhiều mê bồ như những bức tường, thành hình elíp, hình tròn, vuông, chữ nhật, có trụ chống đỡ… rồi để lúa vào bên trong.
- Vị trí địa lý của làng nghề Đan mê bồ xã Mỹ Trà:
+ Phía Đông giáp: Huyện Cao Lãnh.
+ Phía Tây giáp: Xã Mỹ Tân, thành phố Cao Lãnh
+ Phía Nam giáp: Phường Mỹ Phú và Phường 1, thành phố Cao Lãnh.
+ Phía Bắc giáp: Huyện Cao Lãnh.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội:
- Xã Mỹ Trà có 3 ấp, diện tích toàn xã: 695,14 ha, Trong đó: Ấp 1: Diện tích là 328,54 ha; Ấp 2: Diện tích là 233,50 ha; Ấp 3: Diện tích là 133,10 ha.
- Xã Mỹ Trà thuộc khu vực Đồng Tháp Mười có địa hình tương đối bằng phẳng; Do đặc trưng của vùng Đồng Tháp với nhiều sông rạch nên độ chia cắt địa hình là khá lớn.
- Trên địa bàn xã không có quy hoạch cụm công nghiệp, cũng như khu công nghiệp. Xã có 1 hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ lúa giống Mỹ Trà và Làng nghề đan mê bồ phát triển tập trung ven sông Rạch Chanh và sông Mương Khai rãi đều trên địa bàn 3 ấp, xã Mỹ Trà và một số hộ ở Khóm Mỹ Thuận, Phường Mỹ Phú thu hút hàng trăm lao động nhàn rỗi tại gia đình.
- Toàn xã có 7 tiểu vùng, mỗi tiểu vùng xây dựng đê bao khép kín, bố trí cống đập, các công trình phục vụ sản xuất thích hợp phục vụ sản xuất.
- Nguồn tiếp nhận nước thải làng nghề: Nước thải sinh hoạt của người sản xuất được thu gom vào các bể tự hoại của các hộ gia đình, xử lý trước khi thải ra môi trường.
- Nguồn nước cấp cho sinh hoạt và sản xuất: Nguồn nước do Công ty Cổ phần Cấp nước & Môi trường Đô thị Đồng Tháp cung cấp.
2. QUY MÔ SẢN XUẤT
- Loại hình sản xuất: Sản xuất mê bồ.
- Tổng số hộ trong làng nghề: 68 hộ, trung bình mỗi hộ có 05 lao động tham gia sản xuất.
- Sản phẩm sản xuất: Mê bồ (gồm có bồ da hay còn gọi là bồ cật và bồ ruột); tổng số sản phẩm chính sản xuất/ngày: khoảng 1.000 mê bồ/ngày.
Hình ảnh: Chiếc mê bồ da
Hình ảnh: Đan mê bồ ruột (Siđa)
3. QUY TRÌNH SẢN XUẤT:
Để làm nên được một chiếc mê bồ thì nguyên liệu chủ yếu lấy từ thân cây trúc và cây tre. Khi tre, trúc được đốn hạ, có thể sử dụng liền nhưng để chất lượng tốt hơn thì người ta thường phơi khoảng một nắng cho trúc dẻo lại, ít bị hao hụt khi thành phẩm, nhưng nếu chưa dùng đến thì người ta thường tiện ra thành từng đoạn:
+ Độ dài 5,2 mét dùng làm bồ công xuôi.
+ Độ dài từ 3 – 6 mét làm bồ công đứng.
+ Chiều cao bồ công xuôi 1 mét, bồ công đứng 1,1 mét. hoặc để nguyên cây, đem ngâm trong nước nhằm giữ độ tươi, thuận lợi cho việc chế biến về sau. Riêng đối với tre thì buộc phải ngâm nước, nếu không khi thành phẩm sẽ dễ bị mọt ăn.
Theo các lão nông nơi đây nghề đan mê bồ đòi hỏi sự điêu luyện, tinh xảo và những bí quyết riêng để tạo ra những sản phẩm bồ bền, đẹp. Để hoàn thành một chiếc mê bồ với hình ảnh, sắc sảo và có độ bề phải mất khá nhiều công đoạn.
Quy trình để sản xuất ra một tấm mê bồ trải qua nhiều công đoạn, Tre sau khi róc cành gọn gàng sẽ được phơi vài nắng thật tốt cho cây lại dẻo dai rồi mới được chẻ ra từng sợi nan. Đây là khâu khó nhất, phải chẻ thật đều tay thì khi đan sản phẩm mới đẹp. Khâu chẻ nan thường do đàn ông trong gia đình đảm nhiệm, nhưng thỉnh thoảng cũng do phụ nữ làm. Người già, phụ nữ và trẻ em thường nhận công việc đan mê, vì dù sao công đoạn này cũng nhẹ nhàng và đòi hỏi bàn tay khéo léo của phụ nữ để có một số sản phẩm đẹp và trơn láng.
- Người ta bắt đầu tiến hành tách chẻ nguyên liệu ra nhiều mảnh nhỏ. Từ mỗi mảnh nhỏ, lại được lát ra thành từng lát mỏng, gọi là nan. Nan được chia thành 3 loại:
+ Nan được chẻ từ phần vỏ bên ngoài gọi là Bồ nan da (Bồ nan cật) được dùng đan mê bồ loại nhất, loại này thường bán cho nông dân dùng ví lúa vì nó có độ dai, bền lại tránh được mối mọt hoặc xuất khẩu sang các nước láng giềng như Campuchia, chiều dài chiếc mê bồ 4,2 mét, ngang 1,2 mét có giá bán dao động từ 60.000đ đến 70.000đ/chiếc mê bồ.
+ Nan kề (phần trung gian giữa ruột và da hay còn gọi là bồ nan kề) đối với loại này do kỹ thuật tách nan phải thật kỹ thuật nên có mức giá thành ngang với bồ nan da.
+ Nan ruột (phần ruột còn lại) loại này thật mỏng, độ bền không cao nên giá bàn thật rẽ, chuyên dùng trải sà lan chở lúa hay lót phơi khô, trái cây…và còn được bán rất nhiều ra miền Bắc để bầu đất trồng Đào kiểng, hoa kiểng, chiều dài 3,5 mét, ngang 1,2 mét có giá bán từ 10.000 đến 14.000đ/chiếc mê bồ.
+ Ngoài ra tùy vào đơn đạt hàng người dân còn đan thêm sản phẩm mê bồ có độ thưa giữa các nan và nhiều hình dáng kích thước khác nhau còn gọi là mê bồ sida, loại này thường dùng trong chăn nuôi vịt, lót các ao nuôi cá.
Bồ làm bằng nan tre hay trúc, mỗi loại đều có ưu và nhược điểm riêng: bồ làm bằng nan tre dày hơn, chất lượng cao nhưng phải mất một khoảng thời gian dài trong quá trình thành phẩm, còn bồ làm bằng nan trúc thì ngược lại, nhưng ngày nay do lượng tre không còn nhiều và mức độ thành phẩm độ khích của các nan cũng không bằng nan trúc chính vì vậy người dân nơi đây đã chuyển sang sử dụng sản phẩm từ cây trúc. Sản phẩm được tận dụng tại chổ nhưng trong những năm gần đây theo đơn đặt hàng nhiều nguồn cung cấp tại chỗ không còn đủ chính vì vậy nguồn nguyên liệu phải thu mua từ các Tỉnh lân cận như Bến Tre, Cà Mau, Vĩnh Long với giá bán khoảng 8.000 đồng/cây trúc.
(Hình 3: Sơ đồ quy trình sản xuất)
* Quy trình sản xuất truyền thống:
Công cụ truyền thống để chẻ nan là mác. Mác vừa giống như dao vừa giống búa, có hình như một chiếc lá, sống dày 1-2cm, hẹp dần về phía lưỡi. Trung bình một lưỡi mác nặng khoảng 1 kg, dài từ 5-7cm, nếu tra cán vào dài khoảng 50cm. Do trọng lượng và chiều dài như thế, nên nó giúp cho người thợ khi tách, chẻ nguyên liệu đạt hiệu quả tốt. Độ sắc và độ nặng của mác là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chất lượng cọng nan. Tuy nhiên, không phải người bình thường nào với một cái mác đạt chuẩn cũng chẻ được nan chất lượng, mà cần có kỹ thuật và kinh nghiệm. Nếu sử dụng mác không quen, thiếu kinh nghiệm thì nan được chẻ ra sẽ rất dày, không đảm bảo được độ mỏng cần thiết, vừa gây lãng phí vừa khó sử dụng khi đan bồ.
* Quy trình sản xuất bằng máy:
Ngày nay, thợ chẻ trúc thủ công cũng hầu như không còn nhiều như trước. Chủ yếu là chẻ bằng máy, tốc độ và năng suất gấp mấy chục lần chẻ tay, cọng trúc đều và đẹp, độ hao hụt sản phẩm ít hơn nên người dân cũng mạnh dạng trang bị phương tiện bằng máy (máy chẻ ruột hay còn gọi là máy lột da).
Để tạo ra một mê bồ thành phẩm, khâu cuối cùng là đan. Người ta sắp chừng vài chục cọng nan theo chiều dọc, cất đầu nan lên một thanh gỗ, để cho tiện việc lồng những cọng nan ngang vào. Nan ngang khi được lồng qua hết các nan dọc, sẽ được ngoay đầu và tiếp tục lồng trở lại… Khi hết một cọng nan, cọng khác lại được nối theo, lặp lại thao tác cũ. Nan dọc, nếu không đủ chiều cho bồ cũng được nối tiếp tục… Quá trình được lặp đi lặp lại cho đến khi hoàn thiện một mê bồ, do đặc thù công việc tương đối nhẹ nhàng, đơn giản, chỉ cần một ít sức lực và kỹ thuật là có thể làm được. Không có thợ chuyên khâu, mà mỗi người đều có thể thực hiện được tốt tất cả các giai đoạn tách, vót nan, đan thành phẩm… Trung bình một ngày, mỗi người thợ cho ra từ 3 đến 4 mê bồ thành phẩm.
Đầu tư mua một máy chẻ ruột hay còn gọi là máy lột da thì có giá tiền từ 6 đến 8 triệu đồng trên một máy tùy theo chủng loại và xuất xứ máy.
Đối với người dân sử dụng chẻ trúc thủ công thì trung bình 1 ngày có thể hoàn thành được 5 mê bồ/1 ngày. Đối với người dân sử dụng máy chẻ thì một ngày có thể hoàn thành được 20 đến 30 mê bồ/1 ngày.
4. THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ:
Trước đây, bồ làm xong, người ta thường chở đi bán khắp nơi, từ Cần Thơ, Châu Đốc đến Rạch Giá, Cà Mau, Hà Nội thậm chí còn xuất khẩu sang Campuchia. Bán lấy tiền hoặc đổi lúa. Mỗi chuyến đi 10 ngày hoặc nửa tháng, bồ bán đắt nhất vào mùa thu hoạch lúa…
Ngày nay, lúa được đựng trong bao hoặc kho chứa, ít ai ví bồ nên bồ không còn thuần sử dụng cho việc chứa lúa nữa. Hiện tại đã có nhiều cách sử dụng khác: lót sàn xà lan để chở lúa, phơi sấy trái cây, phơi khô, bánh tráng, hủ tiếu. Sản phẩm không cần chở bán như trước mà làm theo đơn đặt hàng, có thương lái đến thu gom. Mê bồ ruột được tiêu thụ ở các tỉnh thành như: An Giang, Long An, Tiền Giang, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai... với công dụng làm lót lò xoáy, lót xe tải, phơi cá, tấng bờ đê bao, trang trí...
Những năm gần đây trong những lễ hội truyền thống hay lễ hội hoa xuân thành phố Cao Lãnh đều sử dụng những chiếc mê bồ để trang trí cho những chậu hoa màu sắc, làm nổi bậc hơn nét đặc trưng của những chiếc mê bồ.
5. HƯỚNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ:
Hiện nay, nghề đan mê bồ truyền thống ở xã Mỹ Trà đang duy trì, ngoài việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sản phẩm, đầu tư trang thiết bị, vốn… cần chú trọng hơn trong việc xây dựng nguồn nguyên liệu ổn định và đa dạng hóa đầu ra cho sản phẩm. Xét về mặt văn hóa - lịch sử, đan mê bồ là một ngành nghề truyền thống của dân tộc; nghiêng về gốc độ kinh tế, nó tận dụng tốt nguồn nguyên liệu địa phương và giải quyết được phần lớn việc làm cho lao động nông nhàn tại địa phương.
Với đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp mùa vụ và chế độ làng xã, nghề đan mê bồ xuất hiện và gắn liền với lịch sử thăng trầm của người dân nơi đây, làng nghề đã hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, của đời sống cộng đồng và dần dần được qui về các khái niệm như nghề truyền thống./.
Tin cùng chủ đề
-
THÔNG TIN LIÊN HỆ LÃNH ĐẠO ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ MỸ TRÀ
27-01-2023 -
Bản đồ xã Mỹ Trà
19-01-2021 -
KHÁI QUÁT VỀ XÃ MỸ TRÀ
14-12-2020